Vì sao các ngân hàng trung ương vẫn đua nhau tăng lãi suất dù lạm phát hạ nhiệt?

Cơn sốt lạm phát đang hạ nhiệt. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là thế giới sớm quay trở lại với thời kỳ lạm phát thấp được ghi nhận trước khi xảy ra cú sốc kép Covid-19 và cuộc xung đột ở Ukraine.

vi-sao-1662087532.png
Người dân mua sắm tại một cửa hàng ở New York, Mỹ.

Khi tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, giá các nguyên liệu thô chính - từ dầu mỏ đến đồng và lúa mỳ - đã hạ nhiệt trong những tuần gần đây, tạo điều kiện giảm giá đối với hàng hóa chế tạo và thực phẩm. Ngoài ra, với việc chuỗi cung ứng đang dần hồi phục sau đại dịch, đà tăng giá từng được coi là “kinh hoàng” trước đó cũng đã phần nào dịu lại.

Sau khi trải qua cú sốc về giá tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ, kinh tế toàn cầu sẽ phục hồi theo cách phân nhánh, với khu vực châu Âu vẫn đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, đối với toàn thế giới, các nhà phân tích tại ngân hàng JPMorgan Chase ước tính rằng lạm phát giá tiêu dùng sẽ giảm xuống mức 5,1% trong nửa cuối năm nay – chỉ bằng một nửa so với mức được ghi nhận trong sáu tháng đầu năm 2022.

Bruce Kasman, chuyên gia kinh tế trưởng của JPMorgan Chase, cho biết: “Cơn sốt lạm phát đang hạ nhiệt”. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là thế giới sớm quay trở lại với thời kỳ lạm phát thấp được ghi nhận trước khi xảy ra cú sốc kép COVID-19 và cuộc xung đột ở Ukraine. Đồng nghĩa với đó, chuyên gia này cho rằng xu hướng thắt chặt tiền tệ của ngân hàng trung ương cũng sẽ không kết thúc sớm.

Lạm phát “hạ nhiệt” nhưng vẫn ở mức cao

Giá thuê nhà và chi phí sử dụng các dịch vụ thâm dụng lao động có thể sẽ tiếp tục tăng cao khi thị trường việc làm bị thắt chặt và vòng xoáy tiền lương ngày càng tăng cao. Ngoài ra, những yếu tố như xu hướng toàn cầu hóa chậm lại và tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu mờ nhạt cũng có thể một lần nữa đặt áp lực lên môi trường giá.

Các ngân hàng trung ương lớn trên toàn cầu, vốn đã không thể dự báo trước về những cú sốc đã xảy ra, đã bắt tay vào việc nâng lãi suất ngay khi chứng kiến lạm phát tăng phi mã. Lần lượt từ Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và Ngân hàng trung ương Anh (BoE) đều dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm một lần nữa vào tháng 9/2022.

Chủ tịch Fed Jerome Powell đã để ngỏ khả năng tăng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm vào tháng tới. Nhà lãnh đạo này phát biểu tại hội nghị Jackson Hole rằng mức giảm lạm phát gần đây tại Mỹ vẫn thấp hơn nhiều so với những gì các nhà hoạch định chính sách kỳ vọng.

Ngày hôm sau, Isabel Schnabel, thành viên ban điều hành của ECB, cũng khẳng định “các ngân hàng trung ương cần tiếp tục hành động mạnh mẽ”. Trong khi đó, một số ngân hàng trung ương khác “nhanh chân” hơn Fed trong việc tăng lãi suất đã có thể tận dụng việc giá hạ nhiệt để tạm dừng các động thái thắt chặt của họ.

Ngân hàng trung ương CH Czech (CNB) trong tháng này đã không thay đổi chính sách trong khi ngân hàng trung ương Brazil dự kiến sẽ làm điều tương tự vào tháng 9. Trong khi đó, Ngân hàng Dự trữ New Zealand (RBNZ) có thể sắp kết thúc các động thái thắt chặt tiền tệ của mình, Thống đốc Adrian Orr cho biết.

Chi phí sinh hoạt tăng cao đã khiến các chính trị gia cũng như các chủ ngân hàng trung ương cảm thấy “khó chịu” - đặc biệt là ở châu Âu, nơi giá khí đốt tự nhiên cao hơn 7 lần so với thời điểm một năm trước, gây ra tình trạng khẩn cấp về năng lượng.

Trong khi đó, lạm phát ở Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone) được dự báo sẽ tăng nhanh hơn mức kỷ lục 8,9% của tháng Bảy và tập đoàn tài chính Citigroup cho biết, con số này có thể vượt quá mức 18% ở Anh, một phần do các mức trần hóa đơn năng lượng vừa được dỡ bỏ. Tại đây, một loạt các đề xuất thường được coi là hiếm khi xảy ra như quốc hữu hóa một số lĩnh vực đã được đưa ra để giải quyết cuộc khủng hoảng.

Ở chiều ngược lại, các nhà kinh tế của JPMorgan cho biết, Mỹ sẽ trải qua đợt trượt giá lạm phát nhanh nhất trong số các nền kinh tế phát triển, một phần nhờ vào sức mạnh của đồng USD.

Tuy nhiên, điều đó sẽ không ngăn được Fed tiếp tục hành trình thắt chặt chính sách của mình. Chuyên gia kinh tế Anna Wong của cơ quan nghiên cứu Bloomberg Economics cho rằng Fed cuối cùng sẽ tăng lãi suất lên mức 5% để giải quyết tình trạng lạm phát.

Các ngân hàng không muốn tiếp tục mắc sai lầm

Sự sụt giảm gần đây tại một số thị trường hàng hóa quan trọng sẽ giúp làm hạ nhiệt môi trường giá trên toàn cầu. Giá dầu thô kỳ hạn đã giảm khoảng 20% kể từ đầu tháng Sáu, giá kim loại, gỗ xẻ và chip nhớ đã giảm từ mức cao nhất. Chỉ số giá lương thực của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) cũng hạ gần 9% trong tháng Bảy.

Điều này dường như xuất phát sự sụt giảm nhu cầu, một phần do người tiêu dùng không còn thói quen mua sắm bất thường như trong thời gian đóng cửa vì đại dịch, khi họ chi tiêu ít hơn cho các dịch vụ như phòng khách sạn hoặc tại các phòng tập thể dục và đầu tư nhiều hơn vào hàng hóa như xe đạp tập thể dục và máy tính gia đình. Nhà kinh tế trưởng Jan Hatzius của ngân hàng Goldman Sachs cho biết: “Lạm phát hàng hóa sẽ giảm rất nhiều”.

Tuy nhiên, sự tăng giá hàng hóa trước đó đã phản ánh một thực tế là tại châu Âu, ngân sách hộ gia đình đang ngày càng trở nên căng thẳng - và các nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại trên toàn thế giới.

Phần lớn các nền kinh tế châu Âu dự kiến sẽ rơi vào suy thoái trong những tháng tới do cuộc khủng hoảng năng lượng được cho là sẽ kéo dài suốt mùa Đông. Trung Quốc vẫn gặp khó khăn bởi chính sách “Không Covid-19” và thị trường bất động sản suy thoái, với các tác động lan tỏa đến lĩnh vực hàng hóa. Tại Mỹ, việc tăng lãi suất của Fed đã làm suy yếu thị trường nhà ở từng rất sôi động một thời và khiến các công ty công nghệ cao trở nên thận trọng.

Mặc dù vậy, ngay cả khi rủi ro suy thoái gia tăng, các chuyên gia cho rằng nhiều ngân hàng trung ương sẽ không sớm từ bỏ ý định thắt chặt trong tương lai gần. Các nhà đầu tư hiện đang đặt cược rằng vào tháng Ba tới, Fed sẽ tăng lãi suất lên 3,75%, trong khi lãi suất chuẩn của ECB sẽ tăng lên 1,75% và của Vương quốc Anh là 4%.

John Flahive, người đứng đầu bộ phận đầu tư có thu nhập cố định tại cơ quan quản lý tài sản BNY Mellon Wealth Management, khẳng định: “Lạm phát thực sự là một vấn đề và hiện chỉ số này vẫn vượt xa mục tiêu của các ngân hàng trung ương. Họ không muốn mắc sai lầm khi điều chỉnh giảm lãi suất và chứng kiến lạm phát tăng trở lại”.

Giá giảm nhưng nhu cầu nhập khẩu tăng chậm lại

Theo các nhà kinh tế tại ngân hàng Morgan Stanley, một dấu hiệu chắc chắn cho thấy nhu cầu đang chậm lại là mức tăng nhập khẩu của các nền kinh tế lớn - sau khi điều chỉnh theo lạm phát - đang giảm, trong khi xuất khẩu từ châu Á, công xưởng của thế giới, cũng bắt đầu suy yếu.

Sự hồi phục chuỗi cung ứng cũng góp phần làm giảm giá. Chỉ số về áp lực đối với chuỗi cung ứng toàn cầu của chi nhánh Fed tại New York đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu năm 2021. Tỷ lệ vận chuyển ngắn hạn đang giảm, thời gian vận chuyển qua các đại dương đang rút ngắn và các công ty thậm chí bắt đầu than vãn về lượng hàng tồn kho tăng lên.

Randy Breaux, Chủ tịch của Motion Industries, một nhà cung cấp linh kiện công nghiệp có trụ sở tại bang Alabama (Mỹ), đã phát biểu tại một hội nghị vào tháng này rằng: “Chúng tôi thực sự nghĩ rằng thời kỳ tồi tệ nhất của chuỗi cung ứng đã qua”.

Nếu đúng như vậy, Fed có thể không phải tăng lãi suất nhiều như dự kiến để giảm nhu cầu và kiềm chế lạm phát, nhà kinh tế trưởng Torsten Slok của công ty dịch vụ đầu tư Apollo Management cho biết.

Tuy nhiên, ngay cả khi giá hàng hóa tăng chậm lại, vẫn có rủi ro rằng hoạt động chi tiêu sau giai đoạn đại dịch sẽ đẩy giá các dịch vụ như đi xem phim hoặc ở khách sạn lên cao.

Xu hướng này có thể kéo dài. Đặc biệt, chi phí thuê nhà tại Mỹ đã tăng cao do sự khan hiếm trong phân khúc bất động sản có giá cả phải chăng. Điều đó có thể gây áp lực đối với lạm phát vào năm 2023 và “thậm chí có thể xa hơn nữa”, nhà kinh tế trưởng Hatzius cho biết.

Thế giới giờ đã thay đổi

Bên cạnh đó, xu hướng tiền lương tăng cao cũng có thể khiến lạm phát kéo dài hơn. Chi phí nhân công cho đến nay vẫn là khoản chi phí lớn nhất đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ.

Với thị trường việc làm ở Mỹ và châu Âu vẫn còn đang bị thắt chặt, các công ty đang buộc phải tăng lương để giữ chân người lao động. Để duy trì lợi nhuận, những công ty này sau đó sẽ phải chuyển chi phí tiền lương cao hơn sang người tiêu dùng.

Robert Dent, nhà kinh tế cấp cao của Mỹ tại công ty tài chính Nomura Securities, cho biết: “Chúng tôi khá lo lắng về vòng xoáy tiền lương-giá cả”. Ngoài ra, cũng có lập luận cho rằng lạm phát sẽ không trở lại mức trước đại dịch Covid-19 bởi vì thế giới giờ đây đã thay đổi. Toàn cầu hóa đang là một khái niệm gây tranh cãi – một phần do hậu quả của cuộc xung đột tại Ukraine - và các biện pháp nhằm giải quyết tình trạng biến đổi khí hậu có thể tạo ra thêm chi phí, ít nhất là trong ngắn hạn.

Tất cả những yếu tố này có thể tạo ra một “siêu vòng quay vĩ mô” mới, chuyên gia kinh tế học Dario Perkins của công ty tư vấn dự báo kinh tế vĩ mô TS Lombard viết trong một báo cáo.

Theo chuyên gia này, các ngân hàng trung ương có thể “cố gắng ngăn chặn điều này, ngay cả khi cái giá phải trả là suy thoái kinh tế”, nhưng họ sẽ không thể cản trở sự thay đổi về mặt cơ cấu. Rõ ràng, kỷ nguyên lạm phát thấp dai dẳng đã qua.

Hiện tại, ngày càng có sự đồng thuận rằng những gì tồi tệ nhất của đợt lạm phát hiện tại đã trôi qua đối với nhiều nền kinh tế, ngay cả khi vẫn tồn tại những nghi ngờ về tốc độ và mức độ giảm.

Chuyên gia Priyanka Kishore của cơ quan nghiên cứu Oxford Economics nhận định: “Đỉnh của lạm phát không còn xa và sẽ sớm xuất hiện”. Theo chuyên gia Kishore, “tất nhiên có thể có những ngoại lệ, nhưng khả năng cao là ngoại lệ sẽ xuất hiện do các yếu tố đặc trưng của một quốc gia hơn là do áp lực giá cả toàn cầu”.

Phương Nga

Link nội dung: https://kinhtevadoisong.vn/vi-sao-cac-ngan-hang-trung-uong-van-dua-nhau-tang-lai-suat-du-lam-phat-ha-nhiet-a56824.html