CỐ HƯƠNG XA VỜI

 Anh nằm đó như một xác ve. Chỉ có hơi thở gấp gáp và khuôn mặt hiền từ khiến cả nhà yên tâm là anh vẫn còn sống. Vợ chồng tôi về hơi muộn. Tôi khẽ khàng ngồi xuống, nắm lấy tay bàn xương xẩu tội nghiệp của anh. Mười ngày qua anh chỉ uống nước cháo cầm hơi vì cơ thể đã kiệt quệ. Miệng anh mấp máy điều gì, tôi phải ghé sát tai mới nghe được từng tiếng rời rạc: “Sắp… về… đến… Sông… Thu Bồn … chưa?”. Tay anh lỏng dần và buông khỏi tay tôi, sau câu hỏi nửa tỉnh nửa mê ấy. Tiếng gào khóc thảm thương rộ lên. Anh nằm đó mà hồn vía như đang phiêu lãng nơi cố hương xa vời!

      I    

Nhớ lại năm 1958, một chàng trai trắng trẻo hiền lành vào nhà tôi chơi. Đặc biệt, giọng nói không lẫn vào đâu được, chẳng cần hỏi cũng biết anh là người Quảng Nam. Anh bảo đi bộ đội rất sớm, đánh trận liên miên, định về thăm nhà thì có lệnh tập kết ra Bắc, bây giờ ở quê không biết ai còn ai mất. Nghe thấy thế, ba má tôi rất thương vì cùng cảnh xa quê và anh đã trở thành con nuôi của gia đình. Anh là Phạm Văn Thảo.

Một hôm anh đưa chị Ngà về. Anh giới thiệu với ba má, đây là người yêu. Đó là một cô gái mỏng mày hay hạt. Má rất vui và giục: “Cưới lẹ đi con, mày cũng bộn tuổi rồi còn gì”. Anh điềm tĩnh thưa cùng ba má: “Không kịp đâu, con đã nhận quyết định đi B gấp rồi”. Chị Ngà thoáng buồn mắt ngấn lệ. Anh ngồi xích lại gần cầm tay chị, với giọng đầy xúc động: “Con vào trong đó chỉ hai năm sau ra Bắc, chúng con cưới cũng không muộn”. Rồi anh âu yếm ôm vai chị: “Từ nay anh gửi em cho ba má rồi nhé!”.

Trước khi lên đường, anh mang toàn bộ tư trang về nhà. Ba bảo: “Không được đâu, con mang những thứ này gửi cho Ban thống nhất Trung ương. Ở đó họ có trách nhiệm giữ cho mình. Sau này trở ra Bắc họ sẽ trao trả đầy đủ”. Tôi biết ý ba, vì với con người thật thà, quá giản dị như anh, xe đạp, đồng hồ, đã là một tài sản lớn, nhận sao đành.

Từ ngày anh tạm biệt đất Bắc vào Nam chiến đấu, không một lá thư, không một lời nhắn gửi. Một buổi chiều chị Ngà xuất hiện. Cả nhà rất vui vì nghĩ rằng chị sẽ có thông tin về anh. Nước mắt lưng tròng, chị nức nở: “Bốn năm qua con không có tin tức gì của anh ấy…”. Rồi chị ở lại với nhà tôi một đêm. Lúc chia tay, má ôm chị vào lòng và khuyên: “Chờ nó như thế là giỏi rồi, con gái có thì, gặp ai thương thì kết luôn nghe con”. Sáng đó chị lầm lũi ra đi. Không hiểu vì sao trời đang nắng lại đổ mưa tầm tã.

       II  

Mùa thu năm 1965, giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc.Cả nhà tôi khẩn trương rời Thị xã Bắc Giang đi sơ tán lên vùng đất Tân Yên cách đó gần 20km. Lũ trẻ chúng tôi tung tăng tới trường, khi trên đầu máy bay Mỹ ngày đêm xé nát bầu trời. Đã tám năm trôi qua, thỉnh thoảng trong bữa cơm má vẫn nhắc tới anh. Ba im lặng, nhưng chắc trong dạ vẫn đau đáu nhớ hình bóng đứa con nuôi chẳng khác gì con đẻ, hiền lành, ít nói.

Hôm ấy là tháng năm. Mới vào hè mà trời rất oi ả. Đi chợ về, vượt qua hai con dốc má phải dừng chân để nghỉ. Nhìn xuống phía dưới kia một người đàn ông đầu đội nón rách, chân đi dép cao su đã mòn vẹt, tay cầm roi lùa một đàn bò. Gương mặt xanh xao, chiếc áo bộ đội bạc màu ướt sũng mồ hôi. “Dáng điệu thật giống thằng Thảo, nhưng nó là bộ đội đặc công đi B đã 8 năm rồi, sao bây giờ lại đi chăn bò? Chẳng lẽ nó bị kỷ luật, không dám báo tin về nhà?’’. Má thoảng chút hồ nghi, cũng là lúc người đàn ông ấy lên đến đỉnh dốc. Anh bỏ nón ra quạt. Má không giữ được bình tĩnh, liền đứng dậy thốt lên: “Thảo đấy phải không con?”. Anh mặc kệ đàn bò đang chạy tứ tung như lũ trẻ lúc tan trường, nhào tới ôm chầm lấy má. Hai má con mừng mừng tủi tủi. Trưa đó anh ghé lại nhà ăn cơm, kể lại hành trình đi tìm ba má sau 5 năm bị thương từ chiến trường miền Nam ra: Đến cơ quan ba, không một bóng người. Về ngôi nhà cũ thân quen bên hồ, chỉ còn vườn không nhà trống. Thị xã Bắc Giang vắng hoe, lạ lẫm với những đống gạch đổ nát vì nơi đây là mục tiêu hủy diệt của đế quốc Mĩ. Hơn nữa thời chiến đâu đâu cũng “ba không” vì phải giữ bí mật cho các cơ quan nhà nước. Anh buồn bã và thất vọng, trời tối mịt mới quay về trại điều dưỡng ở tận Hải Dương.

Mãi ba năm sau anh mới lấy vợ. Chị là một nữ Thanh niên xung phong làm đường. Họ đã có với nhau hai mặt con. Cu Thanh, đứa con thứ hai mới bốn tháng tuổi, mẹ phải địu theo khắp các cung đường phía Bắc, trong lúc anh vẫn ở trại điều dưỡng. Đàn bò này là đơn vị cử đi mua để về cải thiện đời sống cho anh em. Thương anh, má cứ nài nỉ: “Nghỉ lại một đêm để lấy sức kẻo lùa được đàn bò về Hải Dương ngót trăm cây số, đường còn xa lắm con ơi!”. Nhưng anh nhất quyết: “Đây là tài sản lớn, đơn vị đã tin tưởng, cử con đi mua, về sai hẹn sẽ bị kỷ luật”. Đúng là một con người trung thực, kiên định như chất lính vốn có của anh.

Thương vợ chồng anh quá lận đận, một năm sau ba đã tìm mọi cách đưa cả nhà về đoàn tụ ở Tân Yên. Hợp tác xã sẵn sàng chia sẻ khó khăn ban đầu của gia đình cựu chiến binh này. Họ đã cất một căn nhà và cấp mấy sào ruộng để anh chị an cư lạc nghiệp lâu dài.Năm đứa con xinh xắn, nhà đầy ắp tiếng cười, không chỉ anh chị vui, mà ba má cũng thấy yên lòng.

   III  

Năm 1975 Thống nhất đất nước, anh theo ba về Quảng Ngãi. Đến Đà Nẵng, ba bảo anh hãy về Quảng Nam nắm tình hình xem thế nào, nếu được đưa vợ con vào luôn, không gì bằng quê hương ruột thịt. Vốn đơn giản, trên người chỉ nhất bộ, anh đi có nửa ngày rồi quay lại ngay. Ba ngạc nhiên hỏi, anh chỉ buông một câu gọn lỏn với nét mặt khác thường: “Chết hết rồi!”. Ba tin anh nói thật. Vì Quảng Nam là đất “Trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ”. Chỉ có anh Hai tôi là tinh ý. Gặng hỏi mãi anh mới giải bày vì sao về quê lại chóng vánh như vậy: Khi đến đầu làng, thấy có rất nhiều thanh niên đang đứng ngồi lố nhố, nét mặt ai cũng bặm trợn. Hình như họ là những người làm việc trong chính quyền ngụy cũ, đang phải tập trung chuẩn bị đi cải tạo. Một cậu thanh niên, anh nhìn thấy rất quen. Có thể là họ hàng nhưng xa quê lâu ngày không biết con cái nhà ai. Nó nhìn anh chằm chằm rồi nói rất to như để mọi người cùng nghe: “Tưởng đi tập kết ra Bắc đem cục tiền bự về xây dựng quê hương, ai dè chỉ trên răng dưới cát tút!”. Câu nói ấy làm anh tức đến nghẹn cổ. Là lính đặc công, máu trong người như sôi lên. Anh chỉ muốn xông tới táng cho thằng đó vỡ mồm mới hả giận. Nhưng anh đã kìm chế được, quay gót đi ngay. Thật đáng tiếc, chỉ còn vài bước chân nữa thôi, anh sẽ xuất hiện bất ngờ trong căn nhà xưa, trước sự ngạc nhiên của người mẹ già, người chị gái đang vò võ mấy chục năm mong chờ. Ngày ấy hăng hái đi bộ đội, anh chưa đầy mười tám tuổi. Khi qua con sông Thu Bồn đang mùa nước lũ, họ đồn đò đắm, tất cả đã chết chìm. Bây giờ nếu anh bước vào nhà, sẽ cười ra nước mắt vì trên bàn thờ có cả bát hương dành cho anh.

Một lần nữa, anh âm thầm rời quê hương. Bước chân trĩu nặng, bỏ lại sau những lời nói rác rưởi. Bỏ lại quê nhà với tháp Mỹ Sơn trầm mặc, nơi anh đã từng cùng lũ bạn lên đấy bắt chim. Bỏ lại núi rừng Trà My, Tiên Phước, NúiThành, nơi anh đã chiến đấu sống chết với quân thù. Những trận đánh giáp lá cà làm sao anh có thể quên được. Anh đã bị sức ép của bom đạn khiến anh bị điếc vĩnh viễn, vết thương ở cánh tay, máu đã thấm đỏ trên đất quê nhà. Chỉ mong có ngày im tiếng súng để về giặp lại người thân. Nơi ấy còn có cô thôn nữ xinh đẹp dịu dàng mà gia đình đã định liệu cho anh từ khi mới lớn.

Câu nói vô tình của cậu thanh niên ngày nào có lẽ đã làm anh đau mãi. Một con người hiền lành, chẳng bao giờ màng tới tiền bạc, quyền lợi cho riêng mình. Mặc dù anh thừa sức được cấp thẻ thương binh, được xét tặng Huân chương cao quý. Ngay cả những tài sản có giá trị đã gửi Ban thống nhất Trung ương trước khi vào Nam chiến đấu 1960, anh thản nhiên bảo: “Không cần thiết, thủ tục rắc rối!”. Bao nhiêu năm sống yên ổn bên vợ con, chưa bao giờ anh nhắc tới quê hương bản quán. Tân Yên bây giờ là quê hương thân thiết nhất của anh. Ở đây anh có Hội cựu chiến binh gắn bó đồng cảm như những ngày đã vào sinh ra tử, có hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau và một đàn con cháu đông vui quây quần.

IV  

Một đêm đang ngủ, bỗng tôi nghe tiếng chuông điện thoại reo. “Chắc có lẽ hung tin nên mới gọi muộn như thế này”, tôi thoáng nghĩ và nhấc máy, lòng đầy phấp phỏng. Đầu dây bên kia tiếng chị dâu buồn rười rượi: “Cô ơi! Dạo này anh yếu lắm. Chẳng chịu ăn uống gì. Chỉ luôn mồm đòi về quê thôi. Mà chị có biết quê anh ở nơi nào của tỉnh Quảng Nam đâu!”.

Thương chị quá, tôi chỉ biết an ủi vài câu và tâm trạng rối bời, đêm đó tôi không sao chợp mắt được. Chỉ vài ngày sau chị lại thông báo: “Anh đỡ hơn rồi, nhưng cứ lảm nhảm đòi về quê chạp họ vào 26 tháng 11 âm này…”. Tôi thương anh nhưng cũng trách anh. Giá đừng im lặng với vợ con như bấy lâu nay về quê hương bản quán, đừng quá nặng nề về câu nói của đứa cháu năm xưa thì đâu đến nỗi này. Tôi rất muốn để anh được toại nguyện ở những ngày cuối đời. Mặc dù quê hương anh như một ẩn số.

      “Phải tìm cho được nơi nào trên đất Quảng Nam có nhiều người họ Phạm cư trú nhất?”. Tư duy này của tôi đã được một anh bạn ở Quảng Nam cho biết đó là Huyện Duy Xuyên. Tôi mừng khôn xiết vì như đã tìm được chìa khóa bấy lâu nay vẫn lẫn khuất đâu đấy. Tiếp máy tôi là Bí thư Huyện ủy Duy Xuyên. Khi nghe tôi trình bày nguyện vọng, anh như reo lên: “May cho chị rồi! Một đồng chí họ Phạm ở đây đang xin nghỉ phép về chạp họ”. Tôi mừng quýnh. Rồi anh bạn họ Phạm tốt bụng đó đã thân chinh về quê, kết nối điện thoại của những người ruột thịt ở Duy Thu - Duy Xuyên - Quảng Nam với Cao Xá - Tân Yên - Bắc Giang. Chỉ buồn cười ban đầu cứ “hỷ” với “hả” bởi người Nam kẻ Bắc chưa quen thổ ngữ của nhau nhưng chứa chan hạnh phúc, thỏa lòng mong đợi bấy lâu.

        V   

Một chuyến đi thần tốc về quê anh bắt đầu. Đoàn chúng tôi phải trang bị đầy đủ như đi chiến trận vì Quảng Nam vừa trải qua cơn đại hồng thủy. Thực phẩm, gạo tẻ gạo nếp, rau tươi chất đầy một xe. Chỉ buồn cười mấy con gà đem về để chạp họ và làm lễ gia tiên, cứ gáy như dục giã xe chạy thật nhanh. Quãng đường gần một nghìn cây số khiến ai cũng mệt rũ rượi. Lạ thay, lúc mới lên xe, anh cứ u u mê mê như người mộng du. Tôi hơi lo. Nhưng khi về đến sông Thu Bồn anh tỉnh như sáo. Nói cười rổn rảng, kể lại rất rành rọt những kỉ niệm thời thơ ấu của mình.

Con sông Thu Bồn sau cơn mưa lụt trời đày thật thảm thương. Rác rưởi, quần áo lá khô còn mắc trên lưng chừng ngọn tre. Cả một bức tường tre chắn sóng đẹp như thế nhưng đang oằn mình gánh hậu họa. Con sông trở lại yên bình như một dải lụa mềm đang phơi mình trong nắng. Bến đò ngày xưa người thân tiễn anh đi tưởng không có ngày trở lại vẫn còn đó. Chỉ tiếc, sau cái hôm thoát chết vì đắm đò ấy, giá anh có đôi lời nhắn gửi về cho gia đình thì chắc mọi chuyện sẽ khác. Nhưng với anh tuổi trẻ ngày đó đang hừng hực khí thế ra trận, có khi mạng sống còn coi nhẹ, huống chi gia đình.

Cuộc đi thần tốc đưa anh về tìm lại cội nguồn đã được hơn ba năm ở cái tuổi 80 khi xa quê hương quá nửa đời người. Riêng chị, thật sự yên lòng khi đã được đứng trước bàn thờ cùng anh làm lễ gia tiên đúng ngày chạp họ. Bây giờ cơn bạo bệnh đã ập đến với anh. Các cụ xưa từng bảo: “Bệnh chữa được, nhưng mệnh không chữa được”. Với anh, bây giờ mọi cái đều đã kết thúc. Anh nằm đó nét mặt trầm tĩnh như người lính sắp ra trận. Hãy để anh yên. Hồn vía anh đang phiêu lãng nơi cố hương xa vời…

Lê Chín (t/h)

Link nội dung: https://kinhtevadoisong.vn/co-huong-xa-voi-a73370.html