LTS: TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa có báo cáo nghiên cứu về gói hỗ trợ kinh tế lần 2. Chúng tôi xin đăng tải báo cáo để quý độc giả cùng theo dõi:
Các chính sách, gói hỗ trợ của các nước
Đại dịch Covid-19 bùng phát đã khiến kinh tế thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kép về y tế và kinh tế. Trong năm 2020, bên cạnh nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh, Chính phủ và NHTW các nước đã đưa ra nhiều chính sách, gói hỗ trợ chưa có tiền lệ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và khôi phục nền kinh tế. Theo đó, chính sách tiền tệ - tín dụng chủ yếu gồm 5 giải pháp chính: (i) giảm lãi suất điều hành; (ii) hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ thanh khoản thị trường; (iii) cho các NHTM vay tái cấp vốn để có thể cho doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi hơn; (iv) cho phép giãn, hoãn nợ, giữ nguyên nhóm nợ; (v) tăng cường các biện ổn định tỷ giá và thanh khoản của hệ thống tài chính. Chính sách tiền tệ tại mỗi quốc gia được nới lỏng ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào thể chế và mức độ thiệt hại do dịch gây ra. Tuy nhiên, dư địa của chính sách tiền tệ dần bị thu hẹp vì lãi suất đã ở mức rất thấp và thường chỉ mang tính thời điểm, khẩn cấp; do đó, các nước tập trung nhiều hơn vào chính sách tài khóa.
Chính sách tài khóa chủ yếu gồm 6 giải pháp chính: (i) đầu tư nghiên cứu, sản xuất vaccine và thiết bị y tế; (ii) trợ cấp người lao động phải tạm nghỉ việc hoặc thất nghiệp; (iii) chia tiền mặt cho người dân thu nhập trung bình và thấp; (iv) cho vay lãi suất thấp hoặc bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV và DN kiệt quệ tài chính, khó khăn thanh khoản; (v) giãn, hoãn, giảm thuế thu nhập DN và thuế thu nhập cá nhân; (vi) kích cầu tiêu dùng, du lịch và hỗ trợ xuất khẩu thông qua phiếu mua hàng, giảm giá du lịch và tăng cường bảo hiểm xuất khẩu. Các gói hỗ trợ tài khóa có quy mô khác nhau, tùy thuộc vào thể chế, khả năng ngân sách và mức độ thiệt hại do dịch gây ra.
Theo thống kê của IMF (tháng 1/2021), tính đến nay thế giới đã cam kết chi khoảng 14.363 tỷ USD, tương đương 13,5% GDP năm 2020, trong đó khoảng 8.322 tỷ USD (7,4% GDP, chiếm 59,3% tổng các gói hỗ trợ) là các biện pháp tài khóa, còn lại 6.041 tỷ USD (6,1% GDP, chiếm 40,7% ) là các biện pháp tiền tệ. Riêng Mỹ đã có 3 gói hỗ trợ với tổng giá trị khoảng 5.400 tỷ USD, tương đương khoảng 25,5% GDP năm 2020.
Các nước đã giành khoảng 12,4% của các gói hỗ trợ tài khóa (khoảng 1,1% GDP) cho các hoạt động y tế và phần còn lại 87,6% (khoảng 6,3% GDP) cho các biện pháp hỗ trợ và kích thích kinh tế. Về các gói tiền tệ, giá trị mua tài sản (chủ yếu là trái phiếu) chiếm khoảng 17% (khoảng 0,5% GDP), bảo lãnh DN vay vốn chiếm khoảng 58,4% (4% GDP) và hỗ trợ lãi suất (giảm, cho vay lãi suất ưu đãi…) chiếm khoảng 24,6% (1,6% GDP).
Tuy nhiên, hiện nay chưa có số liệu chính thức đánh giá về kết quả giải ngân cũng như hiệu quả của các chính sách này trên phạm vi toàn cầu. Các gói hỗ trợ khổng lồ (cao hơn 3-4 lần các gói kích thích giai đoạn 2008-2009) cùng với lãi suất giảm về mức thấp đã khiến "tiền rẻ" chảy mạnh vào các kênh đầu tư như chứng khoán, vàng, tiền kỹ thuật số, bất động sản…v.v. Kể từ đầu năm 2020 đến hết ngày 23/3/2021, chỉ số Dow Jones (Mỹ) đã tăng gần 15%, chỉ số MSCI Châu Á tăng 21,8%, giá bất động sản tăng bình quân trên 40 thị trường khoảng 7,6% (theo GlobalPropertyGuide) trong bối cảnh các nền kinh tế vẫn bị tác động nặng nề bởi dịch bệnh đã làm gia tăng nguy cơ về rủi ro bong bóng tài sản toàn cầu.
Đánh giá các gói hỗ trợ của Việt Nam năm 2020
Trong năm 2020, nhằm đối phó với những tác động của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã sớm đưa ra 4 gói hỗ trợ, tổng giá trị công bố hơn 1,1 triệu tỷ đồng, tuy nhiên tổng giá trị thực - tức là tổng chi phí mà Chính phủ và hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) cam kết bỏ ra ước tính khoảng 184,7 nghìn tỷ đồng, tương đương 2,94% GDP năm 2020, bao gồm:
- Gói hỗ trợ tài khóa với giá trị ước tính 73,1 nghìn tỷ đồng (1,16% GDP) theo Nghị quyết 41 (tháng 4/2020): gồm các biện pháp cho phép miễn, giảm thuế, phí, lệ phí (69,3 nghìn tỷ đồng) và gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất (180 nghìn tỷ đồng trong 5 tháng; thực chất ở đây là giãn, hoãn nộp và người dân, DN vẫn phải trả khi đến hạn, giá trị hỗ trợ chính là phần tiền không tính lãi khi gia hạn, ước tính 3.825 tỷ đồng - tương đương lãi gửi ngân hàng với thời hạn 5 tháng). Đến hết ngày 31/12/2020, mới có 48% (87.300 tỷ đồng) trong tổng số tiền thuế và tiền thuê đất được giãn, hoãn.
- Gói hỗ trợ tiền tệ - tín dụng giá trị ước tính 36,6 nghìn tỷ đồng (0,6% GDP) bao gồm: (i) phần giảm lãi suất khi các TCTD cho vay mới với lãi suất ưu đãi (giảm 1-2,5%/năm so với thông thường) với quy mô cam kết khoảng 600 nghìn tỷ đồng, (ii) cơ cấu lại thời hạn trả nợ mà vẫn giữ nguyên nhóm nợ (không tính lãi phạt); (iii) miễn, giảm lãi (giảm 0,5-1,5% cho các khoản vay hiện hữu bị ảnh hưởng); (iv) miễn, giảm phí, nhất là phí thanh toán và một số phí dịch vụ khác...v.v. Các khoản hỗ trợ này dẫn đến giảm lợi nhuận trước thuế (giảm 20-25%) cả năm 2020 của các TCTD và giảm thu ngân sách tương ứng. Song song với đó, NHNN cũng đã 3 lần giảm các lãi suất điều hành, giúp các TCTD có điều kiện giảm lãi suất. Đến hết tháng 12/2020, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khoảng 270 nghìn khách hàng với dư nợ gần 355 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho gần 590 nghìn khách hàng với dư nợ trên 1 triệu tỷ đồng, đặc biệt các TCTD đã cho vay mới lãi suất ưu đãi (thấp hơn mức phổ biến từ 0,5-2,5% so với trước dịch) với doanh số cho vay lũy kế từ ngày 23/1 đến hết năm 2020 đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, cho hơn 390 nghìn khách hàng.
- Gói an sinh xã hội: quy mô 62 nghìn tỷ đồng, song thực chất có giá trị khoảng 49,7 nghìn tỷ đồng (0,7% GDP) (do chi phí của gói hỗ trợ cho vay trả lương về bản chất chỉ là phần lãi không tính do lãi suất là 0% - khoảng 390 tỷ đồng; đến hạn, DN vẫn phải trả lại phần tiền gốc đã vay). Tính đến hết năm 2020, gói an sinh xã hội đã giải ngân hơn 12,8 nghìn tỷ đồng (khoảng 20,6% tổng giá trị) cho gần 13 triệu người và 30.570 hộ kinh doanh. Nhìn chung, công tác chi trả về cơ bản đã đảm bảo đúng đối tượng, song tiến độ còn chậm.
- Các gói hỗ trợ khác với tổng giá trị 29 nghìn tỷ đồng (0,5% GDP) bao gồm gói hỗ trợ giảm 10% giá điện của EVN và gói hỗ trợ giảm giá dịch vụ viễn thông trị giá trị 15 nghìn tỷ đồng. Đến hết ngày 31/12/2020, EVN đã 2 lần thực hiện giảm giá, giảm tiền điện tổng số tiền 10.900 tỷ đồng. Đối với gói giảm giá dịch vụ viễn thông, hiện chưa có thông tin công bố kết quả thực hiện cụ thể.
Như vậy, từ các gói hỗ trợ đã ban hành, có thể thấy việc triển khai gói tài khóa và an sinh xã hội còn chậm, mới đạt khoảng 46% giá trị các gói tài khóa và 20,6% gói an sinh xã hội, đã phần nào ảnh hưởng tới hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Nguyên nhân của tình trạng này cơ bản là do: (i) điều kiện đặt ra ban đầu chưa phù hợp, chưa rõ ràng, chưa sát thực tiễn; (ii) qui trình, thủ tục còn phức tạp, xử lý lâu khiến nhiều doanh nghiệp e ngại; (iii) Nhiều DN rất khó khăn, làm ăn thua lỗ nên không phát sinh nghĩa vụ nộp thuế; (iv) Khâu truyền thông, công khai minh bạch thông tin và mẫu biểu trên mạng chưa tốt, dẫn đến nhiều DN chưa biết cụ thể các chính sách hỗ trợ; và (v) việc phối kết hợp triển khai tại một số đơn vị, địa phương còn chậm.
Đầu năm 2021, các Bộ, ngành đề xuất tiếp tục đưa ra các gói hỗ trợ. Đối với gói tài khóa, ngày 18/2/2021, Bộ Tài chính đã công bố đề xuất gia hạn nộp thuế và tiền thuế đất (quy mô 115 nghìn tỷ đồng) với giá trị thực ước tính 1.557 tỷ đồng, tương đương 0,025% GDP năm 2020. Đây thực chất là việc cho phép doanh nghiệp được chậm trả các nghĩa vụ thuế và tiền thuê đất (hết thời hạn, DN và người dân vẫn phải trả các nghĩa vụ này, giá trị hỗ trợ ở đây chính là phần không tính lãi khi gia hạn), gồm: (i) gia hạn nộp thuế GTGT trong 5 tháng (quy mô 68.800 tỷ đồng) với giá trị hỗ trợ khoảng 1.147 tỷ đồng; (ii) gia hạn tiền thuế TNDN trong 3 tháng (quy mô 40.500 tỷ đồng) với giá trị hỗ trợ ước tính 354 tỷ đồng; (iii) gia hạn nộp thuế thu nhập hộ kinh doanh, cá thể trong năm 2021 (quy mô 1.300 tỷ đồng), với giá trị ước tính 18 tỷ đồng; và (iv) gia hạn tiền thuê đất cho DN trong 5 tháng (quy mô 4.400 tỷ đồng), với giá trị ước tính 39 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Bộ Lao động và TBXH đề xuất tiếp tục dừng đóng bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội (hiện nay mới chỉ dừng đóng 2 loại bảo hiểm này đến hết năm 2020).
Liệu cần có gói hỗ trợ trong năm 2021?
Trong năm 2020, Việt Nam đã thực hiện mục tiêu kép thành công, được quốc tế đánh giá cao. Năm 2021, nền kinh tế với nhiều triển vọng phục hồi, tuy nhiên còn phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức, và cần tiếp tục có các gói hỗ trợ với 4 lý do chính dưới đây.
Một là, đại dịch Covid-19 vẫn lan rộng và diễn biến phức tạp (xuất hiện các biến thể mới với khả năng lây nhiễm và tỷ lệ tử vong cao hơn) trên phạm vi toàn cầu khiến cho thương mại và đầu tư toàn cầu chậm phục hồi, còn nhiều bất định. Mặc dù dịch bệnh hiện vẫn trong tầm kiểm soát và tiến trình tiêm vaccine có nhiều khả quan nhưng việc phục hồi kinh tế - xã hội còn mong manh.
Hai là, hoạt động của doanh nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Số DN tạm ngừng kinh doanh trong 2 tháng đầu năm 2021 tăng 34% so với cùng kỳ năm 2020, ghi nhận mức tăng mạnh nhất trong 2 tháng đầu năm giai đoạn 2018-2021. Bên cạnh đó, nợ xấu có xu hướng tăng, vượt mức 2% cuối năm 2020, dù vẫn trong tầm kiểm soát nhờ việc NHNN cho phép cơ cấu lại nợ mà không phải chuyển nhóm nợ để có thể cho vay mới phục vụ sản xuất – kinh doanh (theo tinh thần Thông tư 01 ngày 13/3/2020). Do đó, việc tiếp tục ban hành các chính sách, biện pháp hỗ trợ giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn là hết sức cần thiết, đặc biệt là một số lĩnh vực như dệt may, da giày; du lịch; vận tải, kho bãi...v.v.
Ba là, các gói hỗ trợ hiện hành chưa được triển khai hiệu quả như mong đợi. Theo khảo sát của TCTK (tháng 9/2020), có tới 82% DN không nhận được hỗ trợ do: (i) không đáp ứng được yêu cầu; (ii) không biết về chính sách; và (iii) quy trình, thủ tục phức tạp.
Bốn là, vẫn còn dư địa sử dụng chính sách tài khóa nghịch chu kỳ, thúc đẩy phục hồi, phát triển KT-XH năm 2021 và sau này. Tỷ lệ nợ công/GDP trước đánh giá lại năm 2020 ở mức 55,8% GDP (hay 44,64% GDP sau đánh giá lại), thấp hơn so với mức 62% GDP cuối năm 2015; bội chi ngân sách từ 6,28% GDP giai đoạn trước xuống mức 3,95% GDP giai đoạn 2016-2020. Điều này cho thấy, trong thời gian qua, Chính phủ đã tích cực củng cố tài khóa trong bối cảnh kinh tế thuận lợi hơn. Năm 2020-2021, kinh tế khó khăn do dịch Covid-19, cũng là lúc Việt Nam cần thực hiện chính sách tài khóa nghịch chu kỳ, tăng chi tiêu hợp lý (nhất là cho lĩnh vực y tế, giáo dục), đẩy mạnh đầu tư công; chấp nhận nợ công, thâm hụt ngân sách tăng nhẹ trở lại, nhưng có lộ trình giảm bền vững.
Bốn khuyến nghị
Trong bối cảnh dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, trong khi quá trình kiểm soát dịch bệnh cũng như việc triển khai tiêm vaccine một cách hiệu quả để khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội cần thời gian. Citibank (tháng 2/2021) dự báo miễn dịch cộng đồng tại các nước đang phát triển phải từ hết quý 3/2021 đến quý 2/2022 mới có thể đạt được). Do đó, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV có 4 khuyến nghị như sau:
Một là, Chính phủ cần khẩn trương rà soát, đánh giá kết quả triển khai các gói hỗ trợ năm 2020; từ đó rút ra mặt được và chưa được; làm cơ sở, tiền đề cho việc thiết kế các gói hỗ trợ tiếp theo. Trong đó, đối với gói tiền tệ - tín dụng, cần sớm sửa đổi Thông tư 01 (mở rộng đối tượng hỗ trợ và gia hạn thời gian giãn, hoãn nợ, cân nhắc thời điểm phải chuyển nhóm nợ và lộ trình trích lập dự phòng rủi ro cho phù hợp để giảm bớt khó khăn cho các TCTD, tránh nợ xấu tăng đột biến; qua đó tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp.
Hai là, sớm xem xét ban hành các gói hỗ trợ bổ sung với quy mô khoảng 93 nghìn tỷ đồng (1,48% GDP năm 2020), trong đó:
- Gói tài khóa: khoảng 45 nghìn tỷ đồng, tương đương 0,71% GDP: (i) Xem xét cho phép miễn phí Công đoàn tại DN năm 2021; (ii) Cho phép chuyển tiếp lỗ năm 2020 sang năm 2021-2022 (qua đó, giảm nghĩa vụ thuế tương ứng); (iii) Chính thức điều chỉnh giảm thuế TNDN từ 20% xuống 15-17% đối với DNNVV (từ năm 2021) như Luật hỗ trợ DNNVV cho phép (mỗi năm thu ngân sách giảm khoảng 15,5 ngàn tỷ đồng); (iv) tăng cho vay qua Quỹ phát triển DNNVV và khởi động hoạt động thực chất của các quỹ bảo lãnh vay vốn DNNVV (quy mô khoảng 60 nghìn tỷ đồng - tương đương 1% GDP). Giá trị hỗ trợ thực tế ước tính khoảng 3.000 tỷ đồng (tương đương 0,05% GDP) với lãi suất cho vay khoảng 4%/năm. Việc cho vay thực hiện qua Quỹ phát triển DNNVV và NHTM (với sự bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV). Thời hạn cho vay tối thiểu là 1 năm, nguồn vốn cấp bù lãi suất từ NSNN. Riêng giải pháp giãn hoãn thuế, tiền thuê đất như đề xuất của Bộ Tài chính (khoảng 115 ngàn tỷ đồng), tương ứng giá trị hỗ trợ thực tế là 1.557 tỷ đồng (0,025% GDP năm 2020). Tuy nhiên, cần giảm bớt điều kiện và đơn giản hóa thủ tục nhận hỗ trợ.
- Gói tiền tệ - tín dụng: trị giá khoảng 8.000 tỷ đồng (0,12% GDP) bao gồm: (i) tiếp tục cho vay lãi suất ưu đãi cho một số đối tượng rõ ràng, có lộ trình kết thúc với tiêu chí và điều kiện cụ thể. Đối với Nghị quyết của Quốc hội (tháng 11/2020) về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Vietnam Airlines do ảnh hưởng của dịch Covid-19, cần có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu tài sản đảm bảo, quy định cho vay, đầu tư đối với các DN hàng không đang có tình hình tài chính thua lỗ, thiếu tài sản đảm bảo (không thể áp dụng như DN bình thường); (ii) Tạo điều kiện để các TCTD đẩy mạnh cho vay DNNVV (phối hợp chặt chẽ hơn với Quỹ phát triển DNNVV, Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV như nêu trên); (iii) thúc đẩy gói cho vay nhà ở xã hội (gói 3.000 tỷ đồng…) và Bộ xây dựng chủ trì sớm đề xuất cơ chế động lực để DN đầu tư phát triển nhà ở xã hội; (iv) Khuyến khích cho vay đầu tư trang thiết bị y tế, hạ tầng y tế, nghiên cứu vaccine, hạ tầng viễn thông, xử lý rác thải và các lĩnh vực ưu tiên khác.
- Gói an sinh xã hội: cho phép gia hạn thực hiện các gói hỗ trợ năm 2020 đến hết tháng 6/2021, với giá trị còn lại là 36.900 tỷ đồng, khoảng 0,6% GDP. Việc chuyển tiền cần thực hiện qua NHTM và/hoặc dịch vụ Mobile money (nhằm đảm bảo công khai, minh bạch, tiết giảm chi phí và thúc đẩy thanh toán không tiền mặt). Đồng thời, cần hỗ trợ chi phí đào tạo nghề cho lao động chuyển nghề do mất hay thay đổi việc làm, nâng cao tay nghề để có thể tận dụng cơ hội dịch chuyển chuỗi sản xuất…v.v. Quy mô chương trình dự kiến khoảng 3.000 tỷ đồng/năm (0,48% GDP), trong đó 50% từ ngân sách TW và từ ngân sách địa phương (hiện nay, mỗi năm ngân sách chi khoảng 1.710 tỷ đồng), 50% từ đóng góp của các DN hưởng lợi từ lao động được đào tạo này.
Ba là, xây dựng kế hoạch, phương án thoái lui các biện pháp hỗ trợ khi nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng vững chắc nhằm hạn chế các rủi ro lạm phát tăng lên, thị trường tài sản (chứng khoán, bất động sản…) tăng cao, tiềm ẩn nguy cơ bong bóng.
Bốn là, tiếp tục phối hợp với các tổ chức quốc tế (WHO, Liên minh COVAX...) và các tổ chức sản xuất vaccine để sớm có đủ lượng vaccine cho Việt Nam. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền về sự cần thiết của việc tiêm vaccine ngừa Covid-19 để người dân yên tâm thực hiện; thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, sản xuất vaccine tại Việt Nam.