WB: Để trở thành nền kinh tế thu nhập cao năm 2045, Việt Nam cần ưu tiên 4 lĩnh vực sau trong thập kỷ tới

Lợi Trần
Theo báo cáo mới của Ngân hàng Thế giới, với một mô hình phát triển dựa vào năng suất, kết hợp đổi mới, sáng tạo với phát triển cân bằng và phân bổ hiệu quả vốn tư nhân và nhà nước, vốn nhân lực và vốn tự nhiên, sẽ là yếu tố then chốt để Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045.

Báo cáo với tên gọi "Việt Nam năng động: Tạo nền tảng cho nền kinh tế thu nhập cao" vừa được công bố ngày 27/5, đúng vào thời điểm Chính phủ Việt Nam đang xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Báo cáo đưa ra các khuyến nghị chính sách giúp Việt Nam duy trì tăng trưởng có chất lượng cao thông qua các doanh nghiệp năng động hơn, cơ sở hạ tầng tốt, lao động có tay nghề và hướng tới một nền kinh tế xanh hơn.

"Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu vô cùng to lớn trong phát triển, nhưng hiện nay đất nước đang ở một bước ngoặt khi các động lực tăng trưởng truyền thống đang dần suy yếu. Để đạt mục tiêu trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045, tăng trưởng năng suất cần phải giữ vị trí trọng điểm trong mô hình phát triển kinh tế. Nói cách khác, Việt Nam cần có quyết sách để không chỉ phát triển nhanh hơn mà còn cần phải chất lượng hơn nữa", ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho biết.

Đại sứ Australia tại Việt Nam H.E. Robyn Mudie cho rằng, cam kết cải cách kinh tế quyết liệt là nhân tố quan trọng đưa đến những thành tựu phát triển nổi bật của Việt Nam. "Úc tự hào vì đã hỗ trợ báo cáo này, cung cấp các khuyến nghị rõ ràng để Việt Nam có thể khai thác cải cách nâng cao năng suất, cải thiện cả chất lượng và tính công bằng cho sự phát triển kinh tế trong tương lai của mình".

Một vài yếu tổ thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam hiện đang chậm lại. Dân số đang già hóa, thương mại toàn cầu đang giảm dần, trong khi những thách thức khác - như sự ô nhiễm và sự gia tăng của tự động hóa, đang gia tăng. Cuộc khủng hoảng COVID-19 đang diễn ra có thể là động lực thúc đẩy những xu hướng này.

Báo cáo cho rằng để tiếp tục tăng trưởng trong một môi trường có nhiều biến động như vậy, Việt Nam cần tập trung củng cố các tài sản sản xuất, trong đó ưu tiên 4 lĩnh vực sau:

Doanh nghiệp năng động: Khuyến khích cạnh tranh và tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng gia nhập và rời thị trường để đảm bảo nguồn lực được đưa đến những công ty sáng tạo và hiệu quả nhất. Điều này chỉ có thể xảy ra trong một môi trường kinh doanh thuận lợi, doanh nghiệp được đảm bảo khả năng tiếp cận tài chính, quy định pháp lý minh bạch và được pháp luật bảo vệ.

Cơ sở hạ tầng hiệu quả: Việt Nam đã xây dựng rất nhiều công trình cơ sở hạ tầng, nhưng hiện nay Chính phủ cần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của dịch vụ hạ tầng, đặc biệt trong việc huy động tài chính, vận hành và bảo trì.

Lao động có tay nghề cao và cơ hội cho tất cả mọi người: Việt Nam có thứ hạng cao về giáo dục phổ thông, nhưng với một mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất cần nâng cao chất lượng giáo dục đại học và các chương trình đào tạo kỹ thuật và dạy nghề. Những lực lượng lao động phải đối mặt với các rào cản khi gia nhập thị trường lao động, bao gồm các dân tộc thiểu số, cần được tạo cơ hội lớn hơn để thúc đẩy cả công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế khi dân số già đi và lực lượng lao động bị thu hẹp.

Kinh tế xanh: Phát triển bền vững đòi hỏi phải quản lý hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo như đất, rừng và nước; kiểm soát ô nhiễm chặt chẽ hơn, đặc biệt ở các trung tâm đô thị lớn; giảm thiểu và thích ứng với các tác động không thể tránh khỏi của biến đổi khí hậu đang ngày càng gia tăng.

Báo cáo này do của Hiệp hội đối tác chiến lược nhóm Úc - Thế giới thứ hai tại Việt Nam (Second Australia – World Bank Group Strategic Partnership - ABP2), với sự đóng góp tài chính từ Quỹ toàn cầu của Hàn Quốc về tăng trưởng cho Quỹ ủy thác phát triển.