Đề xuất 4 nhóm giải pháp phát triển công nghiệp – thương mại vùng Đông Nam Bộ

Tuyết Trang
Để tạo động lực mới giúp các địa phương trong vùng Đông Nam Bộ có thể đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 2 con số, thúc đẩy phát triển công nghiệp – thương mại, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã đề xuất 4 nhóm giải pháp trọng tâm.

Đông Nam Bộ là vùng kinh tế năng động, sáng tạo, đi đầu trong đổi mới và phát triển

Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, vùng Đông Nam Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; là vùng kinh tế năng động, sáng tạo, đi đầu trong đổi mới và phát triển; có mạng lưới giao thông kết nối trong nước, quốc tế với đủ 5 phương thức vận tải và là cửa ngõ giao thương của khu vực phía Nam cũng như cả nước với hệ thống cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế thuận lợi, đóng vai trò “đầu mối” giao lưu, hội nhập quốc tế, rất thuận lợi cho phát triển các loại hình dịch vụ logistic lớn nhất cả nước.

Bên cạnh đó, vùng Đông Nam Bộ còn có tài nguyên phong phú cả trên đất liền và thềm lục địa như dầu mỏ, khí đốt và ngư trường trọng điểm.

Những năm qua, kinh tế vùng Đông Nam Bộ phát triển khá nhanh, đóng góp lớn nhất so với các vùng kinh tế khác về tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất khẩu và thu ngân sách của cả nước; trong đó, công nghiệp và thương mại, dịch vụ được xác định là một trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Hiện nay, vùng Đông Nam Bộ đóng góp tới 42% tổng thu ngân sách nhà nước và gần 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu, khẳng định vai trò cực tăng trưởng của cả nước. Trong 10 tháng năm 2024, tình hình phát triển công nghiệp, thương mại vùng Đông Nam Bộ tiếp tục đạt kết quả tích cực.

Đông Nam Bộ là vùng kinh tế năng động, sáng tạo, đi đầu trong đổi mới và phát triển. Ảnh minh họa

Nổi bật là chỉ số sản xuất công nghiệp vùng Đông Nam Bộ duy trì mức tăng trưởng khá cao (9,3%), cao hơn mức tăng chung của cả nước (8,3%); Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 12,7% so với cùng kỳ, vượt 4,8% mức tăng bình quân cả nước (8,5%); Kim ngạch xuất khẩu tăng 12,2%, chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (trong đó, hầu hết các địa phương trong vùng ĐNB đều có quy mô xuất khẩu trên 1 tỷ USD); xuất siêu đạt 4,2 tỷ USD, chiếm gần 20% tổng thặng dư thương mại của cả nước (23,3 tỷ USD).

Tuy nhiên, Bộ trưởng Diên cũng thẳn thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong hoạt động công nghiệp – thương mại của Vùng, như trong quá trình đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị của ngành công thương còn chậm; xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chủ lực chưa tạo được đột phá; hạ tầng phục vụ xuất khẩu như dịch vụ logistics, kho, cảng… còn hạn chế, làm tăng chi phí, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu.

Đề xuất 4 nhóm giải pháp phát triển công nghiệp - thương mại vùng Đông Nam Bộ

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, để tạo động lực mới, giúp các địa phương trong Vùng có thể đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức 2 con số, thúc đẩy phát triển công nghiệp – thương mại (trong đó có xuất khẩu công nghiệp của Vùng), ngoài việc tập trung khắc phục các hạn chế, các địa phương trong Vùng cần quan tâm theo dõi sát tình hình thị trường xuất khẩu trong năm tới, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản….

Trong bối cảnh đó, dưới góc độ ngành công thương, Bộ trưởng Công Thương đã đề xuất 4 nhóm giải pháp trọng tâm:

Nhóm giải pháp về thể chế, chính sách:

Theo Bộ trưởng, cần tập trung cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án, cơ chế, chính sách cụ thể, đủ mạnh và khả thi.

Mỗi địa phương trong Vùng cần chủ động rà soát, cập nhật và nếu cần thiết, đề nghị cấp có thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tỉnh, thành phố nhằm bảo đảm phù hợp, liên thông với Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch vùng và các Quy hoạch ngành quốc gia; đồng thời, rà soát, bổ sung Quy hoạch, Quy hoạch sử dụng đất của địa phương, phù hợp với quy hoạch cấp tỉnh để có đủ cơ sở pháp lý và các điều kiện sẵn sàng tiếp nhận, triển khai các dự án đầu tư, tạo động lực tăng trưởng mới.

Vùng cần làm tốt công tác quán triệt và triển khai sớm, hiệu quả các chủ trương, chính sách mới, có tính đột phá của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội (có hiệu lực thi hành từ cuối năm 2024 và đầu năm 2025), nhất là các cơ chế đặc thù đối với TP Hồ Chí Minh (trong đó có việc thành lập Trung tâm tài chính quốc tế) và các Luật, cơ chế, chính sách mới được ban hành, như: Các luật về đầu tư, tài chính ngân sách, đất đai và Luật điện lực (sửa đổi); Các chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất;

Đặc biệt là các chính sách đột phá mới ban hành trong lĩnh vực năng lượng như cơ chế mua bán điện trực tiếp, cơ chế phát triển điện mặt trời áp mái tự sản xuất, tự tiêu dùng... tạo dư địa phát triển kinh tế Vùng và mỗi địa phương.

Nhóm giải pháp về hạ tầng:

Bộ trưởng cũng đề xuất cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để huy động tối đa nguồn nội lực, kết hợp hài hoà với ngoại lực cho đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở dữ liệu và hạ tầng giao thông trọng điểm, hạ tầng logistics nhằm nâng cao khả năng kết nối về hạ tầng nội vùng, liên vùng.

Các địa phương trong Vùng cũng cần chủ động tạo quỹ đất sạch và huy động hiệu quả các nguồn lực đẩy nhanh xây dựng hoàn thiện hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất theo quy hoạch để thúc đẩy phát triển thực chất các hành lang công nghiệp, nhất là công nghiệp công nghệ cao; Sớm hình thành, phát triển Hệ sinh thái công nghiệp - đô thị - thương mại, dịch vụ trong bán kính trên/dưới 100km so với điểm nút giao thông trọng yếu của Vùng;

Đặc biệt, hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp và khu công nghiệp chuyên biệt, phát huy thế mạnh công nghiệp khai thác, lọc hóa dầu; phát triển tối đa tiềm năng về năng lượng tái tạo để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và phục vụ nhu cầu trong nước cũng như xuất khẩu; chú trọng phát triển công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp bán dẫn, tự động hóa, công nghiệp môi trường, chế biến sâu nông-thủy sản… Nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế cửa khẩu quốc tế tại các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước.

Chú trọng khai thác vị trí địa chiến lược và lợi thế đặc thù về hệ thống hạ tầng giao thông kết nối Vùng với 5 phương thức vận tải thuận lợi (gồm cả đường biển - hàng không - đường sắt - đường thủy nội địa - đường bộ) để đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển dịch vụ logistics, các trung tâm trung chuyển và kho vận hiện đại (gắn với cảng biển nước sâu, cảng hàng không quốc tế Long Thành, cao tốc Bắc-Nam, Đông -Tây, đường sắt tốc độ cao trong tương lai…) nhằm giải phóng sức sản xuất, khơi thông nguồn hàng, tạo luồng lưu chuyển hàng hóa thông thoáng, thúc đẩy giao thương nội vùng, liên vùng và quốc tế.

Nhóm giải pháp về thu hút đầu tư:

Các địa phương cần chủ động ban hành (hoặc đề xuất với cấp có thẩm quyền ban hành) các cơ chế, chính sách có tính đột phá và khả thi để khai thác có hiệu quả cơ hội nổi bật, lợi thế cạnh tranh của Vùng, đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, có lợi thế cạnh tranh (như: Công nghiệp chế biến, chế tạo; điện tử; công nghệ số)…

Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao (như: Công nghệ AI; sản xuất chíp, bán dẫn, rô bốt, công nghiệp năng lượng tái tạo, vật liệu mới) và phát triển công nghiệp hỗ trợ.

Chú trọng thu hút đầu tư từ các tập đoàn lớn, đa quốc gia có năng lực công nghệ cao, đứng đầu các chuỗi giá trị; đồng thời, tạo lập cơ chế khuyến khích và ràng buộc để các doanh nghiệp FDI có sự lan tỏa, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước cùng phát triển một cách thực chất, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước vươn lên, đủ khả năng hấp thụ, làm chủ công nghệ hiện đại và kỹ năng quản trị tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tự chủ, thích ứng, sức chống chịu cao trước biến động của thị trường.

Nhóm giải pháp về phát triển thương mại:

Phát triển thương mại, thúc đẩy xuất khẩu, gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm bền vững, tập trung hoàn thiện hạ tầng thương mại (gồm cả thương mại truyền thống và thương mại hiện đại); Chú trọng phát triển thương mại điện tử, nhất là thương mại điện tử xuyên biên giới.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, các địa phương trong Vùng cần tận dụng tối đa cơ hội dịch chuyển nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và khai thác có hiệu quả các FTA mà nước ta là thành viên để đa dạng hoá thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu.

Bên cạnh đó, các địa phương cần tập trung khai thác và chú trọng thực hiện Đề án xuất khẩu chính ngạch, gắn với quy hoạch vùng trồng, vùng nuôi, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, kết hợp với việc xây dựng, bảo vệ thương hiệu sản phẩm tại thị trường trong nước và quốc tế; chú trọng, khai thác phát triển kinh tế biên mậu, kết hợp thương mại với du lịch và gắn phát triển thương mại, du lịch với phát triển kinh tế ban đêm để thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cũng cho biết, Bộ Công Thương sẽ khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn để các địa phương, doanh nghiệp có cơ sở triển khai Luật Điện lực (sửa đổi) mới được Quốc hội thông qua; sớm hoàn tất thủ tục thực thi Hiệp định FTA với UAE.

Đồng thời, tiếp tục triển khai đàm phán, ký kết, mở mới thị trường xuất khẩu sang các nước, các khu vực còn nhiều tiềm năng; Tăng cường các hoạt động thúc đẩy liên kết vùng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Trung tâm hỗ trợ công nghiệp tại TP. HCM, các hoạt động kết nối, xúc tiến thương mại, kích cầu tiêu dùng nội địa, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng ưu đãi của các Hiệp định thương mại tự do, cảnh báo sớm nguy cơ các nước áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp tại nước ngoài.

Tú Anh (t/h)