Hoàn thiện chính sách về quản lý và bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới

Thực tế đặt ra yêu cầu cần có những quy định cụ thể trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ di sản thế giới, nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế trong công tác quản lý, bảo vệ di sản thế giới ở Việt Nam, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đang dự thảo Nghị định quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam.

Một góc cổ kính, thơ mộng của thành phố Huế. Ảnh Hoàng Lê.Một góc cổ kính, thơ mộng của thành phố Huế. Ảnh Hoàng Lê.

Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến nay, Việt Nam đã có 34 di sản UNESCO công nhận, ghi danh, trong đó có: 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận theo Công ước 1972 về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước 1972); 16 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh theo Công ước 2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể; 10 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh theo Chương trình Ký ức Thế giới.

Sau khi các di tích của Việt Nam được UNESCO công nhận Di sản văn hóa và Thiên nhiên Thế giới theo Công ước 1972, việc bảo vệ và phát huy giá trị các di tích này, đồng thời phải tuân thủ quy định của pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam, Công ước 1972, Hướng dẫn thực hiện Công ước và các văn bản liên quan.

Ảnh: Ban Quản lý Di sản Mỹ Sơn/www.disanvanhoamyson.vnẢnh Ban Quản lý Di sản Mỹ Sơn/www.disanvanhoamyson.vn

Theo đó, tùy thuộc điều kiện và tình hình thực tế, các địa phương, nơi có Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đều thành lập Ban Quản lý di tích, giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng di sản thế giới; xây dựng và ban hành kế hoạch quản lý di sản thế giới; giám sát chặt chẽ về tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của di sản thế giới…, từng bước cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản.

Sau ghi danh, các di sản thế giới ở Việt Nam ngày càng được nhiều người biết tới, góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên thế giới, ít nhiều làm thay đổi uy tín, cơ cấu, diện mạo kinh tế - xã hội của các địa phương nơi có di sản thế giới. Cũng nhờ đó, các di sản này luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của toàn thể xã hội trong công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản.

Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới lần đầu tiên vào năm 2003. Ảnh internet.Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới lần đầu tiên vào năm 2003. Ảnh internet.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc quản lý, bảo vệ các di sản thế giới ở Việt Nam thời gian qua cũng còn một vài bất cập, hạn chế như: Quy định pháp luật về di sản văn hóa chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản thế giới hiện nay;

Quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trực tiếp quản lý, bảo vệ di sản thế giới còn rất khác nhau, chưa tương xứng với tầm vóc quản lý di sản thế giới, dẫn tới một số trở ngại nhất định trong quá trình vận hành, xử lý công việc, đồng thời chưa phát huy được năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, bảo vệ di sản thế giới...

Vịnh Hạ Long - kỳ quan thiên nhiên thế giới. Ảnh internet.Vịnh Hạ Long - kỳ quan thiên nhiên thế giới. Ảnh internet.

Thực tế nêu trên đặt ra yêu cầu cần có những quy định cụ thể trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ di sản thế giới, nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế trong công tác quản lý, bảo vệ di sản thế giới ở Việt Nam, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và tình hình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Vì vậy, việc ban hành Nghị định quy định về quản lý và bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho biết, Bộ đã xây dựng dự thảo Nghị định gồm 4 chương, với 22 điều. Trong đó, Chương I. Những quy định chung gồm 03 điều quy định những vấn đề có tính nguyên tắc chung, bao gồm: phạm vi điều chỉnh của Nghị định; đối tượng áp dụng của Nghị định; giải thích những khái niệm chính về di sản thế giới, giá trị nổi bật toàn cầu, tính toàn vẹn của di sản thế giới, khu vực di sản thế giới và vùng đệm của khu vực di sản thế giới. 

Ảnh internet.Hoàn thiện chính sách về quản lý và bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Ảnh internet.

Chương II. Bảo vệ và quản lý di sản thế giới gồm 13 điều quy định những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ và quản lý di sản thế giới. Các quy định tại Chương này tập trung vào những vấn đề: giám sát định kỳ tình trạng bảo tồn yếu tố gốc của di sản thế giới; những vấn đề liên quan đến việc lập, thẩm định và phê duyệt kế hoạch quản lý, quy chế bảo vệ di sản thế giới; nội dung cơ bản của kế hoạch quản lý và quy quy chế bảo vệ di sản thế giới. 

Chương III. Trách nhiệm bảo vệ và quản lý di sản thế giới gồm 4 điều quy định về trách nhiệm của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia trong bảo vệ và quản lý di sản thế giới.

Chương IV. Điều khoản thi hành gồm 2 điều quy định về hiệu lực thi hành và tổ chức thực hiện nghị định.

Việt Nam đã có 34 di sản UNESCO công nhận, ghi danh, trong đó có: 8 Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận theo Công ước 1972 về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước 1972); 16 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh theo Công ước 2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể; 10 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh theo Chương trình Ký ức Thế giới.

PV (t/h)