Chốt phiên giao dịch ngày 30/12, dầu thô Brent tăng 22 US cent tương đương 0,3% xuống 74,39 USD/thùng và giá dầu kỳ hạn tháng 3/2025 tăng 20 US cent lên 73,99 USD/thùng. Dầu WTI tăng 39 US cent tương đương 0,6% lên 70,99 USD/thùng. Trong tuần trước, giá dầu Brent và WTI tăng 1,4%, được thúc đẩy bởi tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc ngày 20/12/2024 giảm, do các nhà máy lọc dầu đẩy mạnh hoạt động và mùa lễ hội thúc đẩy nhu cầu nhiên liệu. Ngoài ra, giá dầu tăng được hỗ trợ bởi tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước giảm 3 triệu thùng.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng hơn 16% - phiên tăng mạnh nhất kể từ cuối tháng 10/2024, do dự báo thời tiết trong tháng 1/2025 lạnh hơn và nhu cầu xuất khẩu tăng. Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn New York tăng 55,3 US cent tương đương 16,4% lên 3,936 USD/mmBTU – cao nhất kể từ tháng 1/2023. Tính chung cả năm, giá khí tự nhiên tăng 55% - cao nhất kể từ năm 2016.
Giá vàng giảm trong phiên giao dịch trầm lắng, khi các nhà đầu tư chờ đợi số liệu kinh tế của Mỹ trong tuần tới, có thể ảnh hưởng đến triển vọng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ năm 2025, cũng như các chính sách từ tân Tổng thống Mỹ Donald Trump. Vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 0,6% xuống 2.604,49 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 2/2025 trên sàn New York giảm 0,5% xuống 2.618,1 USD/ounce. Tính chung cả năm, giá vàng tăng gần 27% và đạt mức cao kỷ lục 2.790,15 USD/ounce hôm 31/10/2024, khi các nhà đầu tư tìm kiếm vàng trong bối cảnh bất ổn địa chính trị và Mỹ cắt giảm lãi suất. Giá bạch kim giảm 1,5% xuống 905,62 USD/ounce và chạm mức thấp nhất hơn 3 tháng.
Giá đồng tại London giảm trong phiên giao dịch trầm lắng, khi những người tham gia thị trường chờ đợi số liệu kinh tế từ Trung Quốc – nước tiêu thụ hàng hóa lớn nhất thế giới. Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,7% xuống 8.916 USD/tấn. Đồng USD tăng mạnh cũng gây áp lực đối với giá kim loại, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng USD trở nên đắt hơn đối với khách hàng nắm giữ tiền tệ khác.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng, được hỗ trợ bởi lợi nhuận biên của các nhà sản xuất thép được cải thiện, tồn trữ tại cảng biển giảm và kỳ vọng về các biện pháp kích thích kinh tế tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc, song mức tăng bị hạn chế bởi nhu cầu mùa vụ chậm lại. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Đại Liên tăng 0,98% lên 775,5 CNY (106,25 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm 2024 giá quặng sắt giảm 16,3%. Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Singapore tăng 1,83% lên 100,65 USD/tấn, trước đó trong phiên giá quặng sắt chạm mức thấp 98,95 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm 2024 giá quặng sắt giảm 19,2%. Tồn trữ quặng sắt tại các cảng lớn của Trung Quốc trong tuần kết thúc ngày 27/12/2024 giảm tuần thứ 2 liên tiếp, giảm 0,6% xuống 146,85 triệu tấn. Tuy nhiên, mức này vẫn cao hơn 28,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp, được hỗ trợ bởi đồng JPY suy yếu và sự lạc quan xung quanh lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc, trong khi các thương nhân chuyển tập trung sang điều kiện thời tiết tại nước sản xuất hàng đầu – Thái Lan. Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 3,9 JPY tương đương 1,05% lên 374,5 JPY (2,37 USD)/kg. Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 285 CNY tương đương 1,62% lên 17.885 CNY (2.450,3 USD)/tấn.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE giảm 0,2% xuống 3,1695 USD/lb. Giá giảm sau khi đạt mức cao kỷ lục 3,4835 USD/lb trong phiên ngày 10/12/2024. Đồng thời, giá cà phê robusta trên sàn London giảm 0,6% xuống 4.921 USD/tấn.
Hà Trần (t/h)