Tại Hội nghị lần thứ ba Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Hồng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Nguyễn Chí Dũng đã báo cáo về triển khai quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng, báo cáo sơ kết một năm thực hiện Nghị quyết 30 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng, các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển vùng.
Theo Bộ trưởng, ngay sau khi Nghị quyết số 30 của Bộ Chính trị về phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 30 được ban hành, các bộ, ngành và địa phương trong vùng đã khẩn trương quán triệt các nội dung, ban hành các kế hoạch hành động, tổ chức triển khai quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại các nghị quyết và đạt kết quả tích cực sau hơn 1 năm triển khai.
Bộ KH&ĐT đánh giá tình hình phát triển kinh tế-xã hội của vùng đạt được nhiều kết quả tích cực, từng bước phát triển ổn định theo định hướng bền vững hơn.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) năm 2023 của vùng đạt 6,28%, đứng thứ 3/6 vùng kinh tế (sau vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng Đồng bằng sông Cửu Long), gấp 1,24 lần so với bình quân chung cả nước (cả nước tăng 5,05%).
Quy mô nền kinh tế giá hiện hành đạt hơn 3.100 tỷ đồng, chiếm 30,1% GDP cả nước, đứng thứ 2/6 vùng kinh tế (sau vùng Đông Nam Bộ 30,2%); GRDP bình quân đầu người đạt 131,9 triệu đồng, đứng thứ hai cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ 166 triệu đồng).
Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2023 ước đạt hơn 720.000 tỷ đồng, đứng đầu cả nước (vùng Đông Nam Bộ ước đạt 689.000 tỷ đồng).
Thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2023 lớn nhất nước, ước đạt 17,382 tỷ USD (đứng trên vùng Đông Nam Bộ 11,394 tỷ USD), trong đó 5/11 địa phương trong vùng thuộc nhóm 10 địa phương dẫn đầu cả nước.
Quý I/2024, GRDP bình quân của vùng đạt 6,2% (bình quân cả nước 5,66%), thu cân đối ngân sách Nhà nước đạt 94.000 tỷ đồng, bằng 30,37% dự toán (311.000 tỷ đồng), xuất khẩu ước đạt 31 tỷ USD, chiếm 33,9% kim ngạch xuất khẩu cả nước (93 tỷ USD); giải ngân vốn đầu tư công của vùng ước 4 tháng đạt hơn 25.128 tỷ đồng, đạt 14% kế hoạch (cả nước 17,5%).
Chất lượng cơ sở hạ tầng vùng Đồng bằng sông Hồng ngày càng được cải thiện, có 4/11 địa phương nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố có cơ sở hạ tầng tốt nhất cả nước (Quảng Ninh dẫn đầu cả nước, Hà Nội đứng thứ tư, Hải Phòng thứ 7, Bắc Ninh thứ 8).
Bộ KH&ĐT cho biết, Chương trình hành động của Chính phủ đề ra 21 chỉ tiêu phát triển, 36 nhiệm vụ, 20 dự án quan trọng của vùng cần thực hiện đến năm 2030. Đến nay, đã hoàn thành 3/36 nhiệm vụ (gồm: Quy hoạch vùng; thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng vùng, tổng kết, xây dựng Luật Thủ đô sửa đổi; đã phê duyệt quy hoạch 9/11 tỉnh trong vùng (Hà Nội, Hưng Yên chưa phê duyệt). Các nhiệm vụ còn lại là các đề án lớn đang được các bộ, địa phương chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai theo tiến độ.
Bên cạnh đó, tháng 11/2023, Chủ tịch Hội đồng vùng đã ban hành quyết định giao 23 nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên Hội đồng vùng. Đến nay, đã hoàn thành được 12/23 nhiệm vụ , chiếm 52% số nhiệm vụ được giao. Đây là một nỗ lực rất lớn của các thành viên Hội đồng trong một thời gian ngắn, thể hiện tính trách nhiệm phối hợp cao trong triển khai nhiệm vụ được giao.
Đối với 11 nhiệm vụ còn lại, các thành viên Hội đồng đang khẩn trương triển khai do đây là các nhiệm vụ mới cần sự nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan và có thời gian triển khai trong các năm tiếp theo.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, trong 20 dự án quan trọng, liên kết vùng, đã khởi công triển khai thực hiện 7 dự án gồm: (1) Đường Vành đai 4 vùng Thủ đô; (2) đường Vành đai 5 vùng Thủ đô (đã triển khai một số đoạn qua các tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Bắc Ninh, Thái Bình); (3) cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 4B Quảng Ninh-Lạng Sơn, đoạn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; (4) nâng cấp, mở rộng Nhà ga hành khách quốc tế T2 sân bay Nội Bài; (5) Tuyến đường sắt đô thị thí điểm TP. Hà Nội, đoạn Nhổn-Ga Hà Nội; (6) Cải tạo, nâng cấp tĩnh không cầu Đuống trên tuyền đường thủy số 1 từ Hải Phòng-Quảng Ninh-Việt Trì; (7) các bến cảng số 3, 4, 5, 6, 7, 8 tại cảng Lạch Huyện, Hải Phòng.
Trong đó, dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội, đã có 6/7 dự án thành phần đang thực hiện; 1/7 dự án thành phần đang chuẩn bị thực hiện (dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc theo phương thức PPP). Đối với 3 dự án thành phần bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cơ bản đạt tiến độ đề ra, đã thu hồi 95,2% diện tích đất trên toàn tuyến.
Dự án tuyến đường sắt đô thị Nhổn-Ga Hà Nội đạt tiến độ tổng thể khoảng 78,52% giá trị hợp đồng, đối với đoạn đi ngầm, nhà thầu đang tập trung thi công kết cấu các ga ngầm để sớm khởi động thi công máy khoan hầm TBM trong quý II/2024.
8 dự án đang triển khai các thủ tục đầu tư gồm: (1) Đường cao tốc Ninh Bình-Hải Phòng, đoạn qua tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình; (2) Đường cao tốc Bắc-Nam phía Tây, đoạn Cổ Tiết- Chợ Bến; (3) Tuyến đường sắt đô thị TP. Hà Nội, đoạn Nam Thăng Long-Trần Hưng Đạo; (4) Tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam (đoạn Hà Nội-Vinh); (5) Tuyến đường sắt vành đai phía Đông từ Ngọc Hồi-Lạc Đạo-Bắc Hồng; (6) Tuyến Yên Viên-Phả Lại-Hạ Long-Cái Lân; (7) Tuyến Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng; (8) Đầu tư xây dựng Nhà ga T2 sân bay Cát Bi.
Các dự án còn lại đang được nghiên cứu, triển khai trong thời gian tới. Một số dự án quy mô lớn của vùng đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực ngân sách Trung ương để triển khai là đường Vành đai 4 vùng Thủ đô, đường cao tốc Ninh Bình-Hải Phòng (đoạn qua tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình)…
Một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện thành công Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Chính phủ và Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Hồng là rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành để điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển vùng.
Bộ KH&ĐT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Hồng đề xuất rà soát 5 nhóm cơ chế, chính sách, cụ thể:
(1) Nhóm chính sách về phân cấp, phân quyền thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng liên kết vùng.
(2) Nhóm chính sách về phân cấp tài chính-ngân sách.
(3) Nhóm chính sách về thu hút nhân tài, sử dụng nguồn nhân lực và lao động chất lượng cao.
(4) Nhóm chính sách về phát triển logistics và công nghiệp hỗ trợ.
(5) Nhóm chính sách về huy động, sử dụng và phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo.
PV